Được sự đồng ý của Lãnh đạo Nhà nước các Bên, ngày 29/5/2015 tại thị trấn Burabay, CH Kazakhstan, Thủ tướng Chính phủ CHXHCN Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cùng với Thủ tướng của các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á – Âu (Liên bang Nga, CH Belarus, CH Kazakhstan, CH Armenia và CH Kyrgyzstan) và Chủ tịch Ban Thường trực Ủy ban Kinh tế Á – Âu đã ký Hiệp định Thương mại tự do giữa một bên là CHXHCN Việt Nam và bên kia là Liên minh Kinh tế Á – Âu cùng các nước thành viên (Hiệp định).
Được chính thức khởi động tại Hà Nội, Việt Nam vào ngày 28 tháng 3 năm 2013, sau khoảng 2 năm đàm phán và sau khi hoàn tất các thủ tục phê duyệt nội bộ, các Bên đã ký kết Hiệp định FTA với phạm vi toàn diện, mức độ cam kết cao và đảm bảo cân bằng lợi ích, có tính đến điều kiện cụ thể của từng Bên. Hiệp định bao gồm các Chương chính về Thương mại hàng hóa, Quy tắc xuất xứ, Phòng vệ thương mại, Thương mại dịch vụ, Đầu tư, Sở hữu trí tuệ, Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), Quy tắc xuất xứ, Thuận lợi hóa hải quan, Phòng vệ thương mại, Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), Công nghệ điện tử trong thương mại, Cạnh tranh, Pháp lý và thể chế.
Về hàng hóa, Liên minh Kinh tế Á – Âu (Liên minh) đã dành cho Việt Nam ưu đãi, tạo thêm nhiều cơ hội xuất khẩu quan trọng đối với các nhóm hàng Việt Nam có lợi ích cơ bản như nông sản và hàng công nghiệp như dệt may, da giày. đồ gỗ và một số sản phẩm chế biến.
Một nội dung quan trọng của Hiệp định này là phía Liên minh sẽ áp dụng mức thuế suất 0% cho tất cả các mặt hàng thủy sản của Việt Nam ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Cùng với việc xóa bỏ thuế quan, hai Bên sẽ triển khai tích cực Chương về SPS, trong đó có các nội dung về công nhận tương đương đối với các biện pháp hoặc hệ thống quản lý trong lĩnh vực liên quan, công nhận lẫn nhau về các khái niệm về thích ứng với điều kiện khu vực, sử dụng kết quả kiểm toán, thông tin của các tổ chức quốc tế lớn; thúc đẩy hợp tác, triển khai các sáng kiến thuận lợi hóa thương mại và hỗ trợ kỹ thuật và thiết lập cơ chế tham vấn hiệu quả giữa hai Bên.
Phía Việt Nam đồng ý mở cửa thị trường có lộ trình cho Liên minh đối với một số sản phẩm chăn nuôi, một số mặt hàng công nghiệp gồm máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải… Các mặt hàng này nhìn chung đều không cạnh tranh với hàng hóa Việt Nam mà ngược lại góp phần làm đa dạng hóa thêm thị trường tiêu dùng trong nước. Riêng đối với các mặt hàng nông sản, tuy là các mặt hàng phía Liên minh coi thuộc diện ưu tiên và đã được Việt Nam đồng ý mở cửa ngay, chẳng hạn như sữa và các sản phẩm sữa, một số sản phẩm ngũ cốc…, nhưng trong bối cảnh hiện nay, do sản xuất nông nghiệp của phía Bạn chủ yếu phục vụ nhu cầu nội địa và chưa tập trung cho xuất khẩu nông sản nên dự báo trong 5 năm đầu thực thi Hiệp định, ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ không bị tác động rõ rệt bởi việc nhập khẩu mặt hàng nông sản từ Liên minh.
Về tổng thể, hai Bên dự kiến sẽ dành cho nhau mức mở cửa thị trường hàng hóa chiếm vào khoảng 90% số dòng thuế, tương đương vào khoảng trên 90% kim ngạch thương mại song phương.
Theo đánh giá bước đầu của Liên minh, sau khi Hiệp định có hiệu lực, kim ngạch xuất nhập khẩu hai Bên sẽ đạt 10 – 12 tỷ USD vào năm 2020 (năm 2014 đạt khoảng 4 tỷ USD). Theo ước tính của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Liên minh sẽ tăng khoảng 18 – 20% hàng năm.
Những nội dung về Sở hữu trí tuệ, Cạnh tranh, Phát triển bền vững… của Hiệp định chủ yếu mang tính hợp tác và không vượt quá những cam kết của Việt Nam trong WTO và tại các FTA ta đã ký hoặc đang đàm phán, tạo khung khổ để hai Bên có thể xem xét hợp tác sâu hơn khi thấy phù hợp.
Có thể nói, Liên minh Kinh tế Á – Âu có dân số hơn 175 triệu người với tổng GDP khoảng 2.500 tỷ USD, tuy là một tổ chức kinh tế mới được thành lập nhưng có vai trò hết sức quan trọng đối với việc phát triển một số quốc gia thuộc Liên Xô cũ hướng tới một không gian kinh tế thống nhất. Việc ký kết Hiệp định VCUFTA tiếp tục khẳng định vai trò chủ động, tích cực của Việt Nam trong quan hệ hợp tác toàn diện với các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á – Âu, đặc biệt là trong việc thực hiện quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Đối với Liên minh, với việc Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới ký Hiệp định FTA, với vị thế quan trọng của Việt Nam trong ASEAN, việc ký kết Hiệp định này là một trong những ưu tiên hàng đầu của Liên minh về hội nhập kinh tế với thế giới trong giai đoạn hiện nay, qua đó Liên minh kỳ vọng sẽ mở rộng được quan hệ thương mại, đầu tư với khu vực Đông Nam Á trong Chiến lược tăng cường quan hệ với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Về mặt kinh tế, mục tiêu chủ yếu của ta trong đàm phán, ký kết và các cam kết hội nhập kinh tế nhằm đạt được lợi ích căn bản về kinh tế thông qua việc nâng cao sức cạnh tranh của sản xuất trong nước, tạo cơ hội cho thúc đẩy thương mại, dịch vụ, đầu tư, đa dạng hoá các thị trường xuất nhập khẩu, tránh sự phụ thuộc vào một thị trường. Sau khi ký kết, hai Bên sẽ tiếp tục hoàn thành các thủ tục nội bộ để phê chuẩn Hiệp định nhằm mục tiêu để Hiệp định này có hiệu lực trong thời gian sớm nhất.
Cũng trong khuôn khổ chuyến công tác này, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã có buổi hội đàm với Tổng thống Kazakhstan Nursultan Nazarbayev, các Thủ tướng các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á – Âu và Сhủ tịch Ban thường trực Ủy ban Kinh tế Á – Âu Viktor Khristenko. Nội dung chính của các buổi hội đàm này là trao đổi chung về tình hình hợp tác song phương, kế hoạch phê chuẩn Hiệp định của từng Bên và phương hướng triển khai Hiệp định khi có hiệu lực, kế hoạch đàm phán các dự án về lắp ráp ô tô của Nga và Belarus tại Việt Nam, v.v…